BỆNH ĐẬU MÙA KHỈ

1. Bệnh đậu mùa khỉ là gì?

Đậu mùa khỉ là một bệnh do virus đậu mùa khỉ (Monkeypox virus) gây ra. Đây là bệnh truyền nhiễm qua đường da, niêm mạc. Bệnh lây truyền từ động vật sang người và từ người sang người. Bệnh được gọi là bệnh đậu mùa khỉ vì bệnh được phát hiện lần đầu tiên ở những đàn khỉ được nuôi để nghiên cứu vào năm 1958. Sau đó bệnh mới được phát hiện ở người vào năm 1970. Người mắc bệnh thường có các triệu chứng như phát ban, sốt, đau đầu…Hầu hết những người nhiễm bệnh đều hồi phục sau vài tuần, tỷ lệ tử vong không cao. Tuy vậy, các yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh diễn tiến nặng, khả năng tử vong cao bao gồm: người mắc bệnh có tiếp xúc lâu dài với vi-rút, trẻ em, người có hệ miễn dịch kém…

2. Tác nhân gây bệnh

Vi rút gây bệnh đậu mùa khỉ tương tự như vi rút gây bệnh đậu mùa ở người trước đây, virus đậu mùa khỉ thuộc chi Orthopoxvirus trong họ Poxviridae. Chi Orthopoxvirus có khoảng 12 loại virus, bao gồm virus variola (gây bệnh đậu mùa ở người), virus gây bệnh đậu mùa ở bò, virus gây bệnh đậu mùa ở ngựa, virus gây bệnh đậu mùa ở khỉ…

3. Quá trình dịch

3.1. Nguồn truyền nhiễm

Nguồn truyền nhiễm bệnh đậu mùa khỉ là người và động vật.

Bệnh đậu mùa khỉ có thể lây sang người khi người có tiếp xúc với động vật nhiễm bệnh. Theo WHO, nhiều khả năng loài gặm nhấm và động vật linh trưởng là nguồn lây nhưng vẫn chưa thể xác định chính xác.

Bệnh lây giữa người và người qua giọt bắn nước bọt khi giao tiếp, lây qua các vết xước trên da, niêm mạc…

Hiện chưa rõ người không có triệu chứng có thể làm lây bệnh hay không.

Các giai đoạn truyền nhiễm ở người bệnh:

Thời kì ủ bệnh: Thời gian ủ bệnh có thể từ 5 - 21 ngày, tức là sau thời gian đó các triệu chứng đầu tiên của bệnh mới bắt đầu xuất hiện. Một số trường hợp, thời gian ủ bệnh kéo dài trong khoảng từ 7 - 14 ngày.

Thời kì phát bệnh: Ở người, các triệu chứng của bệnh đậu mùa khỉ tương tự nhưng nhẹ hơn các triệu chứng của bệnh đậu mùa. Bệnh đậu mùa khỉ bắt đầu với sốt, nhức đầu, đau nhức cơ và mệt mỏi. Sự khác biệt chính giữa các triệu chứng của bệnh đậu mùa và bệnh đậu mùa khỉ là bệnh đậu mùa khỉ làm cho các hạch bạch huyết sưng lên (nổi hạch to đau) trong khi bệnh đậu mùa thì không.

*Giai đoạn phát ban: Trong vòng 1 đến 3 ngày sau khi xuất hiện sốt, bệnh nhân phát ban, thường bắt đầu ở mặt sau đó lan ra các bộ phận khác của cơ thể.

Tổn thương tiến triển qua các giai đoạn sau trước khi tự khỏi: Hồng ban –> Sẩn đỏ –> Mụn nước –> Mụn mủ –>  mài khô, bong mài. Vị trí: mặt (95%), lòng bàn tay, lòng bàn chân (75%), niêm mạc miệng (70%), cơ quan sinh dục (30%), kết mạc (20%).

Thời kì hồi phục: Phần lớn người bệnh đậu mùa khỉ sẽ hồi phục hoàn toàn trong vòng 2 đến 4 tuần. Virus đậu mùa khỉ không dễ lây truyền như Covid-19, được đánh giá rất khó gây ra đại dịch với mức độ tương đương. Tuy nhiên, các trường hợp nặng có thể xảy ra. Tỷ lệ tử vong do bệnh đậu mùa ở khỉ trước đây dao động từ 0 – 11% trong dân số nói chung và cao hơn ở trẻ nhỏ. Trong thời gian gần đây, tỷ lệ tử vong theo ca dao động trong khoảng 3-6% (WHO).

3.2. Đường truyền nhiễm

Bệnh đậu mùa khỉ có thể lây trực tiếp khi tiếp xúc với máu, chất lỏng trong cơ thể, giọt bắn đường hô hấp, vết thương trên da hoặc niêm mạc của người bệnh (hoặc của động vật mắc bệnh).

Ngoài ra, ăn thịt động vật bị nhiễm bệnh, tiếp xúc với các vật dụng của người bệnh (chăn ga gối nệm, khăn mặt, quần áo…) hoặc tiếp xúc với các tổn thương da của người bệnh cũng có thể khiến một người bị nhiễm bệnh đậu mùa khỉ. Vì thế, nếu sống chung với người đang mắc bệnh đậu mùa khỉ thì khả năng nhiễm bệnh thường khá cao.

Ngoài ra, căn bệnh này cũng có thể lây từ mẹ sang thai nhi và dẫn đến bệnh đậu mùa khỉ bẩm sinh. Trẻ sơ sinh tiếp xúc gần với mẹ trong quá trình sinh nở và sau khi sinh cũng có nguy cơ nhiễm bệnh cao nếu mẹ đang mắc bệnh.

Thực tế cho thấy căn bệnh này có thể lây lan qua tiếp xúc thân mật khi quan hệ tình dục trong lúc một trong hai người có vết mưng mủ, phát ban trên cơ thể.

3.3 Khối cảm nhiễm

Bất kì ai cũng đều có thể mắc bệnh đậu mùa khỉ nếu chưa có miễn dịch. Trong đó trẻ em, phụ nữ mang thai, người có hệ miễn dịch suy yếu là nhóm người có nguy cơ biến chứng cao khi nhiễm virus.

4. Đặc điểm dịch tễ học

4.1 Lịch sử hình thành bệnh

Bệnh đậu mùa khỉ lần đầu tiên được xác định ở người vào năm 1970 tại Cộng hòa Dân chủ Congo ở một cậu bé 9 tuổi trong một khu vực đã loại trừ bệnh đậu mùa (Smallpox) vào năm 1968. Kể từ đó, hầu hết các trường hợp được báo cáo từ các vùng nông thôn, rừng nhiệt đới của lưu vực Congo, đặc biệt là ở Cộng hòa Dân chủ Congo và các ca bệnh ở người ngày càng được báo cáo từ khắp Trung và Tây Phi.

 

Các đợt dịch bùng phát trên thế giới:

Châu Phi: Vào năm 1996–1997, một vụ bùng phát đã được báo cáo ở Cộng hòa Dân chủ Congo với tỷ lệ tử vong do ca bệnh thấp hơn nhưng  tỷ lệ tấn công cao hơn bình thường.

Năm 2017, Nigeria đã trải qua một đợt bùng phát lớn, với hơn 500 trường hợp nghi ngờ và hơn 200 trường hợp được xác nhận và tỷ lệ tử vong khoảng 3%.

Các đợt bùng phát ngoài châu Phi:

+ Mỹ: Năm 2003, đợt bùng phát bệnh đậu mùa khỉ đầu tiên bên ngoài châu Phi là ở Mỹ  và có liên quan đến việc tiếp xúc với những con chó đồng cỏ bị nhiễm bệnh. Những con vật nuôi này đã được nuôi chung với chuột túi Gambian và đã được nhập khẩu vào Mỹ từ Ghana. Đợt bùng phát này đã dẫn đến hơn 70 trường hợp mắc bệnh đậu mùa khỉ ở Mỹ.

Các ca báo cáo ở Mỹ  vào tháng 7 và tháng 11 năm 2021 liên quan đến khách du lịch từ châu Phi.

+ Ở Vương quốc Anh: Bệnh đậu mùa khỉ cũng đã được báo cáo ở những du khách từ Nigeria đến Vương quốc Anh vào tháng 9 năm 2018, tháng 12 năm 2019, tháng 5 năm 2021 và tháng 5 năm 2022,

+ Singapore vào tháng 5 năm 2019 có ca liên quan khách du lịch từ châu Phi.

+ Theo báo cáo của WHO, sự gia tăng số ca mắc bệnh đậu mùa khỉ đã được ghi nhận kể từ đầu tháng 5 bên ngoài các quốc gia Trung và Tây Phi, nơi từng là dịch bệnh lưu hành. Tính đến tháng 7 năm 2022, hơn 15.000 trường hợp mắc bệnh đậu mùa khỉ đã xuất hiện ở 74 quốc gia. Số trường hợp mắc đã tăng 77% kể từ ngày 27/6, trong thời gian này đã có 2 trường hợp tử vong (đều ở Cộng hòa Trung Phi).

+ Khoảng 82% các trường hợp ở châu Âu và 15% ở châu Mỹ.

+ Theo số liệu của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Châu Âu (CDC) và WHO Khu vực Châu Âu, các quốc gia có hơn 1.000 trường hợp mắc bệnh là Anh, Tây Ban Nha và Đức.

+ Ngày 23/7, WHO đã quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp về y tế toàn cầu do dịch bệnh đậu mùa ở khỉ bùng phát ở nhiều nơi trên thế giới.

4.2 Đặc điểm dịch tễ học

Trẻ em thường dễ mắc các triệu chứng nghiêm trọng hơn so với trẻ vị thành niên và người trưởng thành.

Virus cũng có thể truyền sang bào thai hoặc trẻ sơ sinh trong quá trình sinh nở hoặc tiếp xúc vật lý sớm.

Dịch đậu mùa khỉ lây lan mạnh ở cộng đồng nam giới đồng tính, song tính có quan hệ tình dục, tiếp xúc gần gũi.

Bệnh đậu mùa khỉ thường thấy ở Trung Phi và Tây Phi nơi có nhiều rừng nhiệt đới và nơi các loài động vật có thể mang virus thường sinh sống. Người mắc bệnh đậu mùa khỉ thỉnh thoảng cũng được ghi nhận ở các nước khác ngoài Trung Phi và Tây Phi, sau khi di chuyển từ các khu vực có bệnh đậu mùa khỉ lưu hành.

5. Xét nghiệm

Xét nghiệm PCR sử dụng tổn thương da (chỏm mụn nước hoặc dịch ở mụn nước và mụn mủ và/hoặc lớp vảy khô) là mẫu tối ưu. PCR máu bị hạn chế vì thời gian vi rút lưu hành trong máu ngắn và không được khuyến nghị.

6. Điều trị

Không có phương pháp điều trị đặc hiệu cho bệnh đậu mùa khỉ.

Chăm sóc hỗ trợ, kiểm soát triệu chứng và điều trị các bệnh nhiễm khuẩn thứ phát vẫn là những khuyến nghị chính.

7. Phòng bệnh

Nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ và giáo dục mọi người về các biện pháp họ có thể thực hiện để giảm phơi nhiễm với vi rút là chiến lược phòng ngừa chính đối với bệnh đậu mùa khỉ. Các nghiên cứu khoa học hiện đang được tiến hành để đánh giá tính khả thi và thích hợp của việc tiêm vắc xin phòng chống và kiểm soát bệnh đậu mùa khỉ. Một số quốc gia đã hoặc đang phát triển các chính sách cung cấp vắc xin cho những người có thể gặp rủi ro như nhân viên phòng thí nghiệm, đội phản ứng nhanh và nhân viên y tế. Để chống lại sự lây lan toàn cầu, WHO khuyến nghị các quốc gia tăng cường các biện pháp xét nghiệm, giám sát, truy vết và cách ly bệnh nhân bị nhiễm bệnh hoặc nghi nhiễm.

Giảm nguy cơ lây truyền từ người sang người

Giám sát và xác định nhanh các ca bệnh mới là rất quan trọng để ngăn chặn ổ dịch. Trong các đợt bùng phát bệnh đậu mùa ở người, tiếp xúc gần với người bị nhiễm bệnh là yếu tố nguy cơ đáng kể nhất đối với việc lây nhiễm vi rút đậu mùa khỉ. Trong đó: Cán bộ y tế, người nhà và bạn tình có nguy cơ nhiễm bệnh cao hơn.. Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc xác nhận nhiễm vi rút đậu mùa khỉ, hoặc xử lý bệnh phẩm từ họ, nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa kiểm soát nhiễm trùng tiêu chuẩn. Nếu có thể, nên chọn những người đã được tiêm phòng đậu mùa trước đó để chăm sóc bệnh nhân.

Các mẫu được lấy từ người và động vật nghi nhiễm vi rút đậu mùa khỉ cần được xử lý bởi nhân viên được đào tạo làm việc trong các phòng thí nghiệm được trang bị phù hợp. Bệnh phẩm của bệnh nhân phải được chuẩn bị an toàn để vận chuyển với cách đóng gói ba lần theo hướng dẫn của WHO về vận chuyển chất lây nhiễm.

Giảm nguy cơ lây truyền từ động vật sang người

Theo thời gian, hầu hết các bệnh nhiễm trùng ở người đều do lây truyền chính, từ động vật sang người. Phải tránh tiếp xúc không được bảo vệ với động vật hoang dã, đặc biệt là động vật ốm hoặc chết, kể cả thịt, máu và các bộ phận khác của chúng. Ngoài ra, tất cả các thực phẩm có thịt hoặc các bộ phận của động vật phải được nấu chín kỹ trước khi ăn.

Ngăn ngừa bệnh đậu mùa khỉ thông qua hạn chế buôn bán động vật. Một số quốc gia đã đưa ra các quy định hạn chế nhập khẩu các loài gặm nhấm và các loài linh trưởng. Những động vật nuôi có khả năng bị nhiễm bệnh đậu mùa khỉ nên được cách ly khỏi những động vật khác và đưa vào kiểm dịch ngay lập tức. Bất kỳ động vật nào có thể đã tiếp xúc với động vật bị nhiễm bệnh phải được cách ly, xử lý với các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn và theo dõi các triệu chứng bệnh đậu mùa khỉ trong 30 ngày.

Nguy cơ mắc bệnh đậu mùa khỉ từ động vật có thể giảm được bằng cách tránh tiếp xúc mà không có sử dụng bảo hộ cá nhân với động vật hoang dã, đặc biệt là động vật bị ốm hoặc đã chết (bao gồm cả thịt và máu của chúng). Ở các nước có bệnh lưu hành, nơi động vật mang bệnh đậu mùa khỉ, cần nấu chín kỹ bất cứ thức ăn nào chứa thịt hoặc bộ phận của động vật trước khi ăn.

Vắc xin phòng bệnh

WHO hiện đang làm việc với nhà sản xuất để nâng cao khả năng tiếp cận. Những người đã được tiêm phòng bệnh đậu mùa trước đây cũng sẽ có khả năng bảo vệ ở mức độ nhất định chống bệnh đậu mùa khỉ.

Ủy ban châu Âu (EU) đã phê duyệt vắc-xin phòng đậu mùa khỉ Imvanex do Công ty Bavarian Nordic (Đan Mạch) sản xuất để sử dụng ở Châu Âu  bởi châu Âu hiện đang là tâm dịch. Imvanex là loại vắc-xin duy nhất đã được phê duyệt để phòng đậu mùa khỉ ở Mỹ và Canada. Trước đó, vắc-xin này mới được phê duyệt sử dụng trong điều trị bệnh đậu mùa. Quyết định trên được đưa ra một ngày sau khi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ban bố tình trạng khẩn cấp về sức khỏe toàn cầu đối với bệnh đậu mùa khỉ.

 


Tài liệu tham khảo

1. Quarleri, Jorge et al. “Monkeypox: considerations for the understanding and containment of the current outbreak in non-endemic countries.” GeroScience, 1–9. 20 Jun. 2022, doi:10.1007/s11357-022-00611-6

2. Petersen, Eskild et al. “Human Monkeypox: Epidemiologic and Clinical Characteristics, Diagnosis, and Prevention.” Infectious disease clinics of North America, vol. 33,4 (2019): 1027-1043. doi:10.1016/j.idc.2019.03.001

3. Bunge, Eveline M et al. “The changing epidemiology of human monkeypox-A potential threat? A systematic review.” PLoS neglected tropical diseases, vol. 16,2 e0010141. 11 Feb. 2022, doi:10.1371/journal.pntd.0010141

4. Edouard Mathieu, Fiona Spooner, Saloni Dattani, Hannah Ritchie and Max Roser (2022), Monkeypox, https://ourworldindata.org/monkeypox, [Accessed 1 August 2022]